Tại huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái, dân tộc Dao có khoảng 16.216 người, dân số đông thứ ba trong 18 dân tộc trong huyện (đứng sau dân tộc Kinh và Tày). Người Dao Lục Yên được chia làm hai nhóm: Dao Quần trắng và Dao đỏ chiếm đa số; cư trú sinh sống tập trung ở hai khu vực khác nhau.
Nếu người Dao đỏ sinh sống chủ yếu ở khu vực Đông Bắc và Tây Bắc thì người Dao Quần trắng lại chủ yếu hai bên bờ sông Chảy thuộc phía Nam của huyện Lục Yên. Họ sống tập trung đông nhất ở các xã như: Tân Phượng, Khai Trung, Phúc Lợi, Tân Lĩnh và Tô Mậu.
Do có nền văn hóa lâu đời và phong phú, người Dao ở Lục Yên có các hình thức sinh hoạt ca hát, các loại truyện cổ, những điệu múa dân gian trong dịp tết Nguyên đán và lễ cấp sắc, các loại hoa văn trang trí thêu thùa, kho tàng tri thức dân gian về thời tiết, chữa bệnh...
Dù sống phân tán, nhưng người Dao rất trân trọng đám cưới nhằm lưu giữ giá trị văn hóa cổ truyền, luôn quan tâm truyền dạy và tạo điều kiện kế thừa, phát huy những đặc trưng văn hóa của mình.
Đến nay, đám cưới của người Dao đỏ ở Lục Yên vẫn giữ được những nét văn hóa lâu đời, vui tươi và giàu bản sắc.
Đêm vui nhất là đêm trước lễ cưới khi ở nhà trai các chàng trai và cô gái trong những trang phục rực rỡ sắc màu, tay nắm tay nhau bước lên sàn diễn hát Páo Dung. Các cô gái e thẹn, ánh mắt lúng liếng ngồi cạnh nhau, đằng sau là các chàng trai với những nụ cười rạng rỡ, sẵn sàng nhập cuộc. Bên gái cử một đại diện hát khúc dạo đầu.
Bài hát có những câu rằng: “…Váy hoa em vừa dệt xong/Rượu đã dậy thơm nồng/Nương rẫy nhiều lúa gạo/Mùa trăng này sẽ bắt anh/Bắt anh về làm chồng…/Bắt về làm chồng, bắt về làm chồng/Được không anh chàng ơi"…
Càng về khuya lời Páo Dung càng da diết. Lũ trẻ thì mong mình lớn lên để được hát Páo Dung, người già như thấy mình trẻ lại, thần rừng, thần cây nghe nuốt lấy từng câu, cất vào lòng để rồi mai này nếu người Dao có quên hát Páo Dung thần sẽ nhắc lại…
Kết thúc đêm giao duyên của lứa đôi, sáng hôm sau, nhà trai cùng đoàn nhạc lễ với nhạc cụ dân tộc đặc trưng của người Dao gồm kèn, trống, chiêng, chũm chọe sang nhà gái xin đón dâu.
Tùy theo phong tục của mỗi vùng Dao đỏ mà lễ ăn hỏi cũng có sự khác biệt. Với người Dao đỏ ở Lục Yên thì nhà trai mang gà, rượu, thịt sang nhà gái, số tiền thách cưới có thể là 20 hoặc 30 đồng bạc hoa xòe. Số bạc này được nhà gái chuẩn bị quần áo, tư trang đưa cô dâu về nhà chồng.
Từ khi ăn hỏi đến khi cưới khoảng một năm để cô gái phải thêu thùa quần áo cưới. Để báo hỷ cho khách đến dự đám cưới, hai bên gia đình dùng vỏ quả bầu khô cắt ra từng miếng nhỏ như hạt bầu nhuộm bằng màu hồng.
Người thân thường cho hai miếng (nghĩa là người được nhận miếng vỏ bầu này được mời thêm một người nữa, thường là vợ hoặc chồng). Bao nhiêu khách thì chuẩn bị bấy nhiêu hạt. Việc dùng vỏ quả bầu cắt nhỏ để báo hỷ có liên quan đến sự tích chuyện nạn hồng thủy của người Dao.
Đám cưới của người Dao được tổ chức bên nhà trai. Nhà gái sẽ báo nhà trai số khách đến dự cưới để nhà trai chuẩn bị tiếp đón. Sau khi ăn uống, đoàn đưa dâu đứng trước bàn thờ tổ tiên, hai ông quan lang hai bên thưa với tổ tiên việc cưới xin của gia đình và xin phép được đưa dâu sang nhà trai.
Đoàn nhà trai chọn giờ lành để đón dâu, đoàn nhà gái (gọi là Sình Cha) sẽ mang theo một chiếc hòm gỗ đựng đồ của cô dâu và chăn, gối, đệm là những tặng phẩm của người thân cô dâu để đi đến nhà trai. Độc đáo nhất trong lễ cưới của người Dao đỏ là nhà trai không đến đón mà những người đại diện họ nhà gái sẽ đưa cô dâu đến tận nhà chú rể.
Khi đoàn đưa dâu đến gần nhà trai sẽ phải nghỉ chân trên đường để đội mũ và trùm một chiếc khăn lớn được thêu rất cầu kỳ, tỉ mỉ, sau đó người phù dâu phải che mặt cho cô dâu.
Theo phong tục, không để mặt trời nhìn thấy mặt cô dâu bởi sợ mất vía, sẽ không gặp may trong đời sống sau này. Chú rể cũng không được nhìn mặt cô dâu cho đến khi thực hiện xong các nghi lễ tạ tổ tiên.
Nhà trai đợi giờ tốt cử một đoàn kèn Phằn tỵ, trống và ông chủ lễ ra cổng đón. Tại khu vực cổng, gần nhà trai sẽ dựng một chiếc lán, tại đây nhà gái và nhà trai làm lễ đón nhận dâu, bố mẹ cô dâu sẽ khoác miếng vải đỏ lên vai và cài cành hoa bằng bạc lên mũ cưới của cô dâu.
Sau khi nghi lễ kết thúc, cô dâu phải trải qua nghi lễ giải hạn do nhà trai tổ chức mới được vào nhà, sau đó thầy cúng báo với tổ tiên nhà trai, lúc này cô dâu đã chính thức trở thành con cháu trong gia đình.
Không khí đám cưới cũng được chào mừng trên khắp bản làng với những bài ca chào bản, chào mừng đám cưới vui vẻ. Trước khi ra cửa đón dâu, đội nhạc lễ thổi những bài ca mừng cưới trong khi đi vòng ba lần trong nhà rồi ra ngoài đón đoàn Sình Cha nhà gái. Người thổi kèn đôi bên thổi bài chào đón khách và đưa cô dâu cùng đoàn Sình Cha vào nhà.
Ngoài các lễ hội, ngày Tết thì đám cưới cũng là dịp để phụ nữ Dao đỏ ở Khai Trung diện trang phục truyền thống. Trang phục của họ thường có áo, váy, khăn quấn đầu, dây lưng, tất cả đều được thêu hoa văn nổi bật với màu đỏ trên nền vải đen.
Trên trang phục của cô dâu, nhất thiết phải có bạc và nhiều màu sắc như: Màu đỏ thể hiện ánh bình minh rực rỡ, con người luôn hướng về phía mặt trời; màu xanh là của núi rừng, nơi con người sinh sống; màu trắng thể hiện sự trong trắng, thủy chung của người con gái.
Đám cưới truyền thống của người Dao đỏ xã Khai Trung, huyện Lục Yên thể hiện rõ bản sắc văn hóa của dân tộc mà còn chứa đựng giá trị nhân văn sâu sắc, về đạo lý “uống nước nhớ nguồn” với tổ tiên, với văn hóa dân tộc được đúc kết bao đời nay.
Việc gìn giữ đám cưới truyền thống cũng chính là cách người Dao đỏ dạy con cháu về lịch sử, dạy thế hệ sau về tình đoàn kết dân tộc, cùng nhau xây dựng một Khai Trung giàu mạnh, cuộc sống gia đình ấm no, bản làng ngày càng hạnh phúc.
Thế Vũ