Nhiều mô hình hay
Chỉ với hai con dê giống làm vốn ban đầu, sau gần 10 năm, gia đình chị Huach ở làng Ðê Ktu, thị trấn Kon Dơng, huyện Mang Yang đã có đàn dê gần 30 con. Chị Huach cho biết, trước kia, chưa có kiến thức làm nông nghiệp, nên gia đình chị luôn khó khăn, thuộc diện hộ nghèo. Năm 2011, được các cán bộ địa phương tuyên truyền về thay đổi cách thức sản xuất, chị Huach mạnh dạn mua một con dê cái về nuôi.
“Mình nhận thấy nuôi dê không khó, thức ăn cũng dễ kiếm nên vay tiền mua thêm một con dê đực", chị nói.
Nhờ chăm sóc tốt nên cặp dê giống của gia đình chị Huach phát triển khỏe mạnh, sinh sản hai năm ba lứa, mỗi lứa từ một đến hai con. Dành dụm từ tiền bán dê, chị đã mua được 2 con bò, 5 sào đất trồng cà phê và vươn lên thoát nghèo.
Trường hợp chị Huach không phải là cá biệt ở thị trấn Kon Dơng. Nhiều hộ dân ở đây cũng mạnh dạn phát triển chăn nuôi dê khi nhận thấy hiệu quả kinh tế.
Bà Srắt ở làng Ðê Hrel hào hứng kể, lúc trước, nhà bà chỉ nuôi bò nhưng cách đây hai năm, thấy bà con nuôi dê không cần chăn thả lại sinh sản nhanh, gia đình bà thử nuôi một con. “Ðến nay, mình có 4 con rồi", bà Srắt khoe.
Ngoài mô hình nuôi dê, vài năm trở lại đây, mô hình nuôi cá lồng được nhân rộng ở huyện Ia Grai. Tại xã Ia Khai, hiện có tổ hợp tác nuôi cá lồng gồm 6 hộ đồng bào Gia Rai ở làng Nú. Tổ hiện có 12 lồng nhưng trước mắt chỉ nuôi thử nghiệm 4 lồng, chủ yếu là cá diêu hồng và cá trê.
Theo Phó Chủ tịch UBND xã Ia Khai, ông Rơ Châm Pich, khi đất đai ngày càng cằn cỗi, giá nông sản bấp bênh mà địa phương lại có lợi thế về nuôi trồng thủy sản, vì vậy xã đang khuyến khích người dân mở rộng mô hình này.
Tại huyện Kbang, hiện toàn huyện đã xây dựng được 137 mô hình và nhân rộng 37 mô hình hiệu quả cao, như: “Trồng chuối ghép mô”, “Nuôi dê sinh sản”, “Không có người tự tử”, “Điện thắp sáng”; huyện Phú Thiện xây dựng được 54 mô hình và nhân rộng 41 mô hình, như: “Cánh đồng một giống đối với cây lúa”, “Di dời chuồng trại ra khỏi gầm nhà sàn”, “Vườn rau an toàn”; huyện Kông Chro xây dựng được 48 mô hình và nhân rộng 25 mô hình, như: “Nuôi dê sinh sản”, “Trồng lúa nước”…
Tạo sự thay đổi lớn trong nhận thức của đồng bào
Gia Lai là tỉnh có tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số cao, chiếm 44,7%, chủ yếu là dân tộc Bahnar và J’rai. Do phong tục, tập quán còn lạc hậu, nhận thức còn nhiều hạn chế nên đời sống của người dân còn khó khăn.
Trước thực trạng đó, năm 2011, Ủy ban MTTQ tỉnh Gia Lai đã ban hành Kế hoạch 449/KH-MT về việc triển khai cuộc vận động “Làm thay đổi nếp nghĩ, cách làm trong đồng bào dân tộc thiểu số để từng bước vươn lên thoát nghèo bền vững”.
Qua hơn 10 năm, cuộc vận động đã mang lại những kết quả tích cực, góp phần nâng cao nhận thức, đời sống cho người dân, giảm tỷ lệ hộ nghèo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Bà Phạm Thị Lan, Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQ tỉnh Gia Lai cho biết, cuộc vận động “Làm thay đổi nếp nghĩ, cách làm trong đồng bào dân tộc thiểu số để từng bước vươn lên thoát nghèo bền vững” được các tầng lớp nhân dân đồng tình hưởng ứng, thực hiện, nhất là hộ dân tộc thiểu số.
Triển khai cuộc vận động này, các tổ chức thành viên của Mặt trận đã cụ thể hóa, lồng ghép việc triển khai cuộc vận động thông qua chương trình hành động hàng năm, qua các phong trào, cuộc vận động do tổ chức hội phát động.
Theo thống kê của Ủy ban MTTQ tỉnh Gia Lai, qua 10 năm triển khai thực hiện cuộc vận động, MTTQ các cấp đã xây dựng 400 mô hình trên các lĩnh vực và nhân rộng 398 mô hình với 29.528 hộ đồng bào dân tộc thiểu số tham gia thực hiện, qua đó đã giúp cho 18.274 hộ dân tộc thiểu số vươn lên thoát nghèo. Toàn tỉnh Gia Lai đã có 97 làng đạt chuẩn nông thôn mới.
Những mô hình, cách làm hay, sáng tạo trong nếp nghĩ, cách làm đã có sức lan tỏa, tác động mạnh mẽ đến đời sống của nhân dân, nhất là hộ đồng bào dân tộc thiểu số. Người dân không còn trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước, đã mạnh dạn áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất; sử dụng vốn vay hiệu quả.
Qua khảo sát của Ủy ban MTTQ tỉnh Gia Lai, từ việc nhận thức còn nhiều hạn chế, đến nay đã có 74,8% người dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh siêng năng lao động, sản xuất, sắp xếp lao động trong gia đình hợp lý, phát huy lợi thế của đất đai và chọn giống cây trồng, vật nuôi cho năng suất, thu nhập cao; 73,4% hộ thực hiện tiết kiệm, tính toán chi tiêu hợp lý trong sản xuất và tiêu dùng phù hợp với điều kiện kinh tế gia đình.
Cũng theo kết quả khảo sát, 69,7% người dân tham gia và sử dụng Bảo hiểm y tế, khi đau, ốm, sinh đẻ, biết đến cơ sở y tế để khám và điều trị, tiêm phòng đầy đủ theo hướng dẫn của cán bộ y tế; 66,3% người bỏ các hủ tục lạc hậu; 64,6% người biết sắp xếp nhà cửa gọn gàng, vệ sinh vườn tược, chuồng trại.
Theo Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQ tỉnh Gia Lai Phạm Thị Lan, cuộc vận động “Làm thay đổi nếp nghĩ, cách làm trong đồng bào dân tộc thiểu số” đã tạo ra sự thay đổi lớn, giúp đồng bào từng bước xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, thay đổi cách thức lao động sản xuất, mạnh dạn đổi mới cách làm ăn, vươn lên thoát nghèo bền vững. Đặc biệt hơn, có 88,6% người dân biết được những chính sách của Đảng, Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số; tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.
T.Toàn