Hôn nhân cận huyết thống là một hủ tục đã và đang tồn tại ở các huyện miền núi nói chung và vùng đồng bào DTTS tỉnh Tuyên Quang nói riêng, đây là nguyên nhân quan trọng làm suy thoái chất lượng giống nòi. Từ sự vào cuộc tích cực của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt là đội ngũ những người có uy tín trong đồng bào DTTS, công tác phòng, chống tảo hôn và hôn nhân cận huyết trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số đang dần có những chuyển biến tích cực.
Người có uy tín trong đồng bào DTTS góp phần tích cực giảm thiểu tình trạng tảo hôn, kết hôn cận huyết thống
Trong 5 năm gần đây, trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang có 20.015 cặp kết hôn, trong đó có 797 cặp vợ chồng tảo hôn, chiếm 3,96% tổng số cặp kết hôn cùng thời điểm. Độ tuổi tảo hôn thường từ 15 đến 17 tuổi đối với nữ; từ 16 đến 19 tuổi đối với nam.
Đáng lưu ý là có nhiều trường hợp tảo hôn khi cả hai bên nam, nữ đang là học sinh THCS. Sau khi kết hôn, thông thường là các em bỏ học, cuộc sống hôn nhân khó khăn vất vả, thiếu kiến thức về cuộc sống cũng như việc chăm sóc, nuôi dạy con cái.
Qua khảo sát từ năm 2015 đến nay, trên địa bàn tỉnh có 3 trường hợp kết hôn cận huyết thống. Trong đó 1 trường hợp thuộc xã Sinh Long (huyện Na Hang), 2 trường hợp thuộc xã Bình An và xã Hồng Quang (huyện Lâm Bình).
Từ năm 2016, Ban Dân tộc tỉnh Tuyên Quang đã lựa chọn 2 xã Trung Minh, Hùng Lợi (huyện Yên Sơn) để thực hiện mô hình điểm Đề án “Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu số”.
Đến năm 2019, triển khai nhân rộng mô hình trên địa bàn xã Xuân Lập (huyện Lâm Bình). Trong đó, xác định vai trò quan trọng của người uy tín để ngăn chặn tình trạng trên.
Ông Lầu Văn Thào - người dân tộc Mông, Bí thư Chi bộ Nà Tang, xã Hùng Lợi (huyện Yên Sơn) trong 18 năm qua liên tục được UBND tỉnh Tuyên Quang công nhận là người có uy tín.
Sinh ra và lớn lên ở Hùng Lợi, ông Thào chứng kiến không ít nỗi đau vì tục tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống của đồng bào mình. Cho nên, khi làm cán bộ thôn, ông luôn coi tuyên truyền, vận động giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống là nhiệm vụ trọng tâm của chi bộ.
“Mình phải hiểu rõ tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống là gì, hệ lụy của nó ra sao thì mới vận động được. Hơn nữa, cần nhấn mạnh dứt khoát, kiên quyết để đồng bào hiểu đó là hành vi vi phạm pháp luật” - ông Thào quán triệt đến 100% đảng viên; cán bộ thôn vận động con, em, người thân trong gia đình không vi phạm.
Nếu như trước đây, mỗi năm cứ 10 cặp vợ chồng lấy nhau thì có 8 cặp là tảo hôn, nay tình trạng này chỉ còn khoảng 4 - 5 cặp, giảm từ 40 - 50%.
Nỗ lực của ông Thào cũng như đội ngũ người có uy tín của xã Hùng Lợi, Trung Minh (huyện Yên Sơn); Xuân Lập (huyện Lâm Bình) góp phần thực hiện hiệu quả đề án.
Phát huy hơn nữa vai trò của người có uy tín trong hành trình phòng, chống tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống
Từ năm 2016 đến nay, trên địa bàn xã Trung Minh, Hùng Lợi (huyện Yên Sơn) có 214 cặp vợ chồng kết hôn, trong đó số cặp kết hôn đủ tuổi là 159 cặp, số cặp tảo hôn 55 cặp. Số cặp vợ chồng tảo hôn qua các năm không tăng.
Tại xã Xuân Lập (huyện Lâm Bình) có tổng số 109 cặp vợ chồng kết hôn, trong đó số cặp kết hôn đủ tuổi 89 cặp, số cặp tảo hôn 20 cặp, chiếm tỷ lệ 18,3% so với tổng số cặp vợ chồng kết hôn.
Bên cạnh những xã thực hiện đề án, đội ngũ người có uy tín trên địa bàn toàn tỉnh Tuyên Quang luôn có nhận thức đầy đủ về hệ lụy của tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống và tăng cường các giải pháp ngăn chặn.
Trước đây, tại Bản Pước, xã Thổ Bình (huyện Lâm Bình) tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống diễn ra phổ biến trong đồng bào Tày, Dao. Thôn hiện có 128 hộ (112 hộ dân tộc Tày, 14 hộ dân tộc Dao), từ hơn chục năm qua không xảy ra tình trạng trên.
Đóng góp vào kết quả đó có vai trò của ông Phùng Vinh Chu - Bí thư Chi bộ, người uy tín của thôn. Ông kể: “Khi nghe ngóng được một vụ tảo hôn sắp diễn ra trong thôn, tôi lập tức đến tận nhà hỏi thăm và vận động người dân. Có một vài hộ dân chưa hiểu, từ chối lắng nghe nhưng tôi cứ kiên trì mãi thì họ cũng hiểu và thực hiện”.
Tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống là hủ tục của một số dân tộc thiểu số tại địa phương. Do đó, xóa bỏ hủ tục này là hành trình lâu dài, cần sự tham gia của các cấp, các ngành, các thành phần. Trong đó, có vai trò của người có uy tín là vô cùng quan trọng vì đây lực lượng gần dân, sát dân nhất.
Để phát huy hơn nữa vai trò của người có uy tín, cấp ủy đảng, chính quyền tiếp tục tăng cường tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng tuyên truyền, vận động cho người có uy tín; chăm lo thực hiện chính sách, kịp thời biểu dương để người có uy tín phát huy hơn nữa vai trò trong hành trình phòng, chống tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống.
Bích Việt (t/h)